Sách “Các Điều Răn của Thiên Chúa” (14)

3,781 views

Điều Răn Thứ Bảy

Chớ Ngoại Tình

Điều răn thứ bảy của Đức Chúa Trời là:

Ngươi chớ ngoại tình.” (Xuất Ê-díp-tô Ký 20:14).

Điều răn thứ bảy của Đức Chúa Trời được chép trong Xuất Ê-díp-tô Ký 20:14 và được nhắc lại trong Phục Truyền Luật Lệ Ký 5:18.

Điều răn thứ bảy dạy chúng ta không được phạm tội ngoại tình. Mọi sinh hoạt tính dục phải ở trong quan hệ hôn nhân. Thánh Kinh Việt Ngữ Bản Dịch Truyền Thống dịch là: “Ngươi chớ phạm tội tà dâm.” Nhưng “tà dâm” và “ngoại tình” có nghĩa khác nhau. Ngoại tình là một trong các hình thức của “tà dâm.” Điều răn thứ bảy dịch cho đúng với nguyên ngữ Hê-bơ-rơ của Thánh Kinh, thì phải là: “Ngươi chớ ngoại tình.”

Trước hết, chúng ta cần ghi nhớ: “bản tính dâm” hay “bản năng tính dục” không phải là điều xấu xa, tội lỗi. Thiên Chúa dựng nên loài người có nam, có nữ và ban cho loài người bản năng tính dục. Bản năng tính dục cần thiết cho việc lưu truyền dòng giống và đem lại những cảm giác vui thích trong mối quan hệ vợ chồng. Bản năng tính dục cũng như bao nhiêu bản năng khác của loài người, nếu được thể hiện đúng thì sẽ đem lại phước hạnh và ích lợi, nếu thể hiện sai thì sẽ đem lại đau khổ và thiệt hại. Sự thể hiện bản năng tính dục theo thánh ý của Thiên Chúa được gọi là “chính dâm.” Tất cả những sự thể hiện bản năng tính dục nghịch lại thánh ý của Thiên Chúa được gọi chung là “tà dâm.” Chúng ta sẽ tìm hiểu ý nghĩa chi tiết của “tà dâm” khi chúng ta học đến Điều Răn Nên Thánh của Đức Thánh Linh.

Từ buổi ban đầu, Thiên Chúa dựng nên người nam và người nữ. Ngài kết hợp họ với nhau để người nữ làm bạn với người nam và giúp đỡ người nam; đồng thời để cả hai lưu truyền dòng dõi của loài người trên đất và quản trị đất (Sáng Thế Ký 1:26-28; 2:18-25). Việc lưu truyền dòng dõi cần có sự quan hệ tính dục giữa hai phái tính; vì thế, sự quan hệ tính dục giữa vợ chồng là việc thi hành mệnh lệnh của Thiên Chúa. Sự quan hệ tính dục giữa vợ chồng còn là ơn phước Chúa ban, vì nó đem lại những cảm giác và cảm xúc vui sướng, thỏa lòng trong mối quan hệ vợ chồng. Thánh Kinh dạy rõ, vợ chồng phải xem trọng việc quan hệ tính dục, và đó là mối quan hệ bình đẳng: thân thể của chồng thuộc về vợ, thân thể của vợ thuộc về chồng:

Ngài trả lời rằng: Các ngươi chưa đọc lời chép rằng, ban đầu, Ngài dựng nên một người nam, một người nữ, và có phán rằng: Vì cớ đó người nam sẽ lìa cha mẹ, mà dính díu với vợ mình; hai người sẽ cùng nên một thịt hay sao? Thế thì, vợ chồng không phải là hai nữa, nhưng một thịt mà thôi. Vậy, loài người không nên phân rẽ những kẻ mà Đức Chúa Trời đã phối hiệp!” (Ma-thi-ơ 19:4-6).

Nhưng từ lúc đầu sáng thế, Đức Chúa Trời làm ra một người nam và một người nữ. Vì cớ đó, người nam lìa cha mẹ mình mà dính díu với vợ; và hai người cùng nên một thịt mà thôi. Như thế, vợ chồng chẳng phải là hai nữa, mà chỉ một thịt.” (Mác 10:6-8).

Tuy nhiên, để tránh khỏi sự tà dâm, thì mỗi người đàn ông phải có vợ, mỗi người đàn bà phải có chồng. Chồng phải làm hết bổn phận đối với vợ, và vợ đối với chồng cũng vậy. Vợ không có quyền tự chủ về thân mình, mà là chồng; chồng cũng vậy, không có quyền tự chủ về thân mình mà là vợ. Đừng từ chối nhau, trừ ra khi hai bên ưng thuận tạm thời, để chuyên việc cầu nguyện; rồi trở lại hiệp cùng nhau, kẻo quỷ Sa-tan thừa khi anh em không biết tự kiềm chế mà cám dỗ chăng.” (I Cô-rinh-tô 7:2-5).

Ngoài ra, con dân Chúa phải giữ cho mối quan hệ tính dục giữa vợ chồng luôn được thánh sạch, bằng cách không bắt chước người đời sử dụng các đồ chơi tính dục (sex toys) và các tài liệu khiêu gợi tính dục qua phim ảnh, sách báo, Internet. Con dân Chúa phải tuân theo các luật vệ sinh, thực hành mối quan hệ tính dục giữa vợ chồng trong danh Chúa và biết cầu nguyện cảm tạ Chúa:

Khi nào người nam và người nữ quan hệ tính dục với nhau, thì phải tắm trong nước, và bị ô uế cho đến chiều tối.” (Lê-vi Ký 15:18).

Mọi người phải kính trọng sự hôn nhân, nơi phòng ngủ chớ có ô uế, vì Đức Chúa Trời sẽ đoán phạt những đĩ đực và những kẻ ngoại tình.” (Hê-bơ-rơ 13:4).

Vậy, anh em hoặc ăn, hoặc uống, hay là làm sự gì khác, hãy vì sự vinh quang của Thiên Chúa mà làm.” (I Cô-rinh-tô 10:31).

Hãy luôn trong danh Đức Chúa Jesus Christ chúng ta, mà tạ ơn Đức Chúa Trời, là Cha chúng ta, về mọi sự.” (Ê-phê-sô 5:20).

Từ ngữ “ngoại tình” trong nguyên ngữ Hê-bơ-rơ là “na’aph” (H5003) /na-áp/ [1], có nghĩa là: một người đã có gia đình nhưng quan hệ tính dục với một người không phải là vợ hay chồng của mình. Tội ngoại tình không chỉ giới hạn trong hành động ngoại tình mà bao gồm:

1. Tư tưởng ham muốn tính dục với người không phải là vợ hay chồng mình. Kể cả việc tư tưởng đến người khác trong khi đang có quan hệ tính dục với vợ hay chồng:

Các ngươi có nghe lời phán rằng: Ngươi chớ phạm tội ngoại tình. Nhưng Ta phán cho các ngươi biết: Bất cứ ai nhìn một người đàn bà mà ham muốn nàng, thì trong lòng đã phạm tội ngoại tình cùng nàng rồi.” (Ma-thi-ơ 5:27-28).

Có người đặt ra vấn đề là: Ma-thi-ơ 5:27-28 chỉ đề cập đến việc đàn ông nhìn đàn bà mà động tình ham muốn, cho nên, câu này không áp dụng cho đàn bà. Người lý luận như thế tức là đã cho rằng Đức Chúa Jesus tư vị: cùng một hành động xảy ra nhưng Chúa chỉ kết tội phái nam mà không kết tội phái nữ. Thánh Kinh cho chúng ta biết, Thiên Chúa không tư vị ai hết (Ga-la-ti 2:6; Ê-phê-sô 6:9; I Phi-e-rơ 1:17). Câu phán của Chúa thuộc loại nêu thí dụ làm điển hình, tức là nêu lên một sự kiện để chỉ ra bất cứ sự kiện nào tương tự như vậy đều mang chung một tính chất.

  • Sự kiện được Chúa nêu lên là: nhìn một người không phải là phối ngẫu của mình mà động lòng ham muốn.

  • Tính chất của sự kiện ấy là: phạm tội ngoại tình.

Vì thế, bất kể đàn ông hay đàn bà, nếu nhìn một người khác, không phải là vợ hay chồng của mình mà động tình ham muốn thì trong lòng đã phạm tội ngoại tình (hoặc tội gian dâm nếu cả hai, người nhìn và người bị nhìn đều là độc thân). Còn nếu người bị nhìn là người cùng phái tính với người nhìn thì người nhìn vừa phạm tội ngoại tình hoặc gian dâm vừa phạm tội đồng tính luyến ái. Ngoài ra, khi Chúa phán những lời ấy là Ngài đang phán với các môn đồ của Ngài, là những người đàn ông.

2. Sự ly dị vì bất cứ lý do gì nếu không phải là vì người phối ngẫu phạm tội ngoại tình hoặc người phối ngẫu là người không tin Chúa:

Nhưng Ta phán với các ngươi: Nếu người nào ly dị vợ mà không phải vì cớ tà dâm, thì người ấy làm cho vợ mình ra người ngoại tình; lại nếu người nào cưới đàn bà bị ly dị đó, thì cũng phạm tội ngoại tình.” (Ma-thi-ơ 5:32).

Ngài phán rằng: Ai ly dị vợ mình mà cưới vợ khác, thì phạm tội ngoại tình nghịch lại nàng; còn nếu người đàn bà bỏ chồng mình mà lấy chồng khác, thì cũng phạm tội ngoại tình.” (Mác 10:11-12).

Chớ mang ách chung với kẻ chẳng tin. Bởi vì công bình với gian ác có hội hiệp nhau được chăng? Sự sáng với sự tối có thông cùng nhau được chăng? Đấng Christ và Bê-li-an nào có hòa hiệp chi, hay là kẻ tin có phần gì với kẻ chẳng tin? Có thế nào hiệp đền thờ của Thiên Chúa lại với hình tượng tà thần? Vì chúng ta là đền thờ của Thiên Chúa Hằng Sống, như Đức Chúa Trời đã phán rằng: Ta sẽ ở và đi lại giữa họ; Ta sẽ làm Thiên Chúa của họ, và họ làm dân Ta. Bởi vậy, Chúa phán rằng: Hãy ra khỏi giữa chúng nó, hãy phân rẽ ra khỏi chúng nó, đừng đá động đến đồ ô uế, thì Ta sẽ tiếp nhận các ngươi: Ta sẽ làm Chúa các ngươi, các ngươi làm con trai con gái Ta, Chúa Toàn Năng phán như vậy.” (II Cô-rinh-tô 6:14-18).

Lý do chính đáng để ly dị là vì cớ người vợ hay chồng ngoại tình hoặc không tin nhận Chúa. Mặc dù con dân Chúa được phép chọn tiếp tục sống với người vợ hay chồng không tin Chúa, nếu sự sống chung ấy không gây khó khăn cho mình (I Cô-rinh-tô 7:12-16). Nên nhớ, sự con dân Chúa không ly dị vợ hoặc chồng không tin Chúa là tự do lựa chọn được Chúa cho phép, qua sự góp ý của Sứ Đồ Phao-lô, không phải là mệnh lệnh của Chúa, như Phao-lô đã nói rõ trong I Cô-rinh-tô 7:12: “chẳng phải Chúa, nhưng là chính tôi bảo họ rằng…”

Nếu một người bị ly dị vì lý do nào khác hơn là vì ngoại tình hoặc vì không tin nhận Chúa, thì sự ly dị đó không hợp pháp trước mặt Chúa; cho nên, quan hệ vợ chồng vẫn còn. Sự tái hôn của những người như vậy, người ly dị lẫn người bị ly dị, khiến cho họ phạm tội ngoại tình.

Tuy nhiên, khi người vợ hay chồng phạm tội ngoại tình mà đã thật lòng ăn năn thì con dân Chúa cần tha thứ và tiếp nhận trở lại, thay vì ly dị.

Như đã trình bày, ngoại tình là một trong các hình thức của sự tà dâm. Mặc dù điều răn thứ bảy chỉ đề cập đến tội ngoại tình nhưng trong các nơi khác của Thánh Kinh có nghiêm cấm mọi hình thức tà dâm. Trong thời Tân Ước, Đức Thánh Linh đã thêm điều răn về sự nên thánh cho Hội Thánh:

Các ngươi hãy kiêng ăn của cúng thần tượng, máu, thú vật chết ngộp; và chớ tà dâm.” (Công Vụ Các Sứ Đồ 15:29).

Đức Thánh Linh thêm điều răn này là để tóm gọn các sự nghiêm cấm khác trong Thánh Kinh không được đề cập trong Mười Điều Răn cho những người không thuộc dân I-sơ-ra-ên mới gia nhập Hội Thánh, là những người vốn không biết gì về Thánh Kinh Cựu Ước như những người I-sơ-ra-ên.

Ngoài sự ngoại tình thuộc thể còn có sự ngoại tình thuộc linh. Thánh Kinh ví mối quan hệ giữa con dân Chúa với Chúa như mối quan hệ vợ chồng. Trong Cựu Ước, Thiên Chúa gọi I-sơ-ra-ên là vợ của Thiên Chúa:

Đấng Tự Hữu Hằng Hữu phán: Hỡi con cái bội nghịch, hãy trở về; vì Ta là chồng ngươi. Trong vòng các ngươi, Ta sẽ lựa mỗi thành một người, mỗi họ hai người, mà đem đến Si-ôn.” (Giê-rê-mi 3:14).

Đấng Tự Hữu Hằng Hữu phán: Này, những ngày đến, bấy giờ Ta sẽ lập một giao ước mới với nhà I-sơ-ra-ên và với nhà Giu-đa. Giao ước này sẽ không theo giao ước mà Ta đã kết với tổ phụ chúng nó trong ngày Ta nắm tay dắt ra khỏi đất Ê-díp-tô, tức giao ước mà chúng nó đã phá đi, dầu rằng Ta làm chồng chúng nó, Đấng Tự Hữu Hằng Hữu phán vậy.” (Giê-rê-mi 31:31-32).

Đấng Tự Hữu Hằng Hữu phán rằng: Trong ngày đó ngươi sẽ gọi Ta là: Chồng tôi, và sẽ không gọi Ta là: Chủ tôi nữa.” (Ô-sê 2:16).

Ta sẽ cưới ngươi cho Ta đời đời; Ta sẽ cưới ngươi cho Ta trong sự công bình và chính trực, nhân từ và thương xót. Phải, Ta sẽ cưới ngươi cho Ta trong sự thành tín, và ngươi sẽ biết Đấng Tự Hữu Hằng Hữu.” (Ô-sê 2:19-20).

Trong Tân Ước, Đức Thánh Linh gọi Đấng Christ là chồng của Hội Thánh:

Vì về các anh em, tôi rất sốt sắng như sự sốt sắng của Thiên Chúa, bởi tôi đã gả các anh em cho một chồng mà thôi, dâng các anh em như người trinh nữ tinh sạch cho Đấng Christ.” (II Cô-rinh-tô 11:2).

Chúng ta hãy hớn hở vui mừng, tôn vinh Ngài; vì lễ cưới Chiên Con đã tới, và vợ Ngài đã sửa soạn…” (Khải Huyền 19:7).

Một vị trong bảy thiên sứ đã cầm bảy bát đựng đầy bảy tai nạn cuối cùng, đến gần tôi, bảo rằng: Hãy đến, ta sẽ chỉ cho ngươi thấy người vợ mới cưới là vợ Chiên Con.” (Khải Huyền 21:9).

Tham khảo: Ê-phê-sô 5:23-33.

Vì thế, Thánh Kinh cũng gọi việc con dân Chúa thờ lạy hình tượng, tà thần là ngoại tình, là làm điếm:

Dầu Ta đã bỏ I-sơ-ra-ên bội nghịch và đã cho nó tờ ly dị, vì cớ nó ngoại tình, Ta cũng còn thấy em gái quỷ quyệt nó, là Giu-đa, chẳng sợ sệt chi; nhưng nó cũng cứ đi hành dâm, làm đĩ.” (Giê-rê-mi 3:8).

Thời Tân Ước, tội ngoại tình thuộc linh hay là thờ lạy hình tượng, tà thần không giới hạn trong hành động thờ lạy hình tượng và tà thần mà còn bao gồm lòng ưa thích các hình tượng tà thần, tức là phạm tội ngoại tình thuộc linh trong tư tưởng, và lòng tham lam, bất kể là tham lam điều gì:

Vì anh em phải biết rõ rằng: kẻ làm đĩ đực, hoặc kẻ ô uế, hoặc kẻ tham lam, tức là kẻ thờ hình tượng, không được dự phần kế nghiệp vương quốc của Đấng Christ là Thiên Chúa.” (Ê-phê-sô 5:5).

Vậy hãy làm chết các chi thể của anh em ở trên đất, tức là tà dâm, ô uế, tình cảm xấu xa, tham muốn độc ác, và tham lam là sự thờ hình tượng…” (Cô-lô-se 3:5).

Tham lam là muốn có nhiều hơn sự nhu cầu của mình hoặc muốn chiếm đoạt điều không thuộc về mình. Con dân Chúa, nếu không vâng theo Lời Chúa trong I Ti-mô-thê 6:5-8 thì phạm tội ngoại tình thuộc linh, vì đã tôn thờ tiền bạc:

Sự tin kính cùng sự thỏa lòng ấy là một lợi lớn. Vì chúng ta ra đời chẳng đem gì theo, chúng ta qua đời cũng chẳng đem gì đi được. Như vậy, miễn là đủ ăn đủ mặc thì phải thỏa lòng.” (I Ti-mô-thê 6:5-8).

Hậu quả của sự tham tiền bạc, muốn trở nên giàu có, rất là kinh khiếp:

Còn như kẻ muốn nên giàu có, ắt rơi vào sự cám dỗ, mắc bẫy dò, ngã trong nhiều sự tham muốn vô lý thiệt hại kia, là sự làm đắm người ta vào sự hủy diệt hư mất. Bởi vì sự tham tiền bạc là cội rễ mọi điều ác, có kẻ vì đeo đuổi nó mà bội đạo, chuốc lấy nhiều điều đau đớn.” (I Ti-mô-thê 6:9-10).

Bản năng tính dục là sự ban cho của Thiên Chúa, để loài người được vui thỏa trong quan hệ vợ chồng và làm tròn thiên chức sanh sản thêm nhiều, làm cho loài người đầy dẫy đất (Sáng Thế Ký 1:28). Nhưng nếu bản năng tính dục được thể hiện một cách tùy tiện vượt ngoài nguyên tắc của Thánh Kinh thì sẽ khiến cho loài người phạm tội. Điều răn thứ sáu: “Ngươi chớ phạm tội ngoại tình” được bổ sung bởi điều răn “chớ tà dâm” trong Tân Ước, là nguyên tắc sống của con dân Chúa trong phương diện tính dục. Tội ngoại tình thuộc thể nói lên sự không chung thủy của một người đối với vợ hay chồng của mình. Tội ngoại tình thuộc linh nói lên sự không trung tín của con dân Chúa đối với Thiên Chúa, khi họ say mê, tôn thờ, và trông cậy nơi các thần tượng hoặc tham lam.

Ghi Chú

[1] https://www.blueletterbible.org/lang/lexicon/lexicon.cfm?Strongs=H5003