Loài Người (10): Quá Khứ, Hiện Tại, và Tương Lai – Phần 1

3,802 views

Huỳnh Christian Timothy

Dẫn Nhập

Lịch sử loài người bắt đầu từ khi loài người được Thiên Chúa sáng tạo và sẽ kéo dài cho đến mãi mãi. Có tư tưởng thần học cho rằng, trong cõi đời đời sẽ không còn thời gian, điển hình là bài thánh ca bắt đầu bằng câu: “Thời gian sẽ chấm dứt lúc tiếng loa rao tin Chúa lai lâm từ trời!” Tuy nhiên, chính Thánh Kinh cho chúng ta biết, trong cõi đời đời vẫn có thời gian và thời gian được tính bằng tháng: “Ở giữa đường và hai bên bờ sông đó có cây sự sống trổ mười hai trái, ra trái mỗi tháng. Lá của cây dùng để chữa lành các quốc gia” (Khải Huyền 22:2). Trong cõi đời đời, chỉ có ban đêm là không còn nữa, vì chính sự vinh quang của Đức Chúa Trời chiếu sáng vương quốc của Ngài, nhưng thời gian thì vẫn luân chuyển mỗi năm 12 tháng và được đánh dấu bằng sự ra trái của cây sự sống.

Chúng ta đang sống những ngày cuối cùng trong sự tự trị của loài người. Không còn bao lâu nữa, Đức Chúa Jesus Christ sẽ kết thúc sự tự trị của loài người đã kéo dài khoảng 6,000 năm nay, để mở ra Thời Kỳ Vương Quốc Ngàn Năm do chính Ngài cai trị. Sau Thời Kỳ Vương Quốc Ngàn Năm, sẽ là sự phán xét chung cuộc những người không ở trong sự cứu rỗi của Đức Chúa Trời, rồi đến Thời Kỳ Vương Quốc Đời Đời trong trời mới đất mới.

Trong bài này, chúng ta sẽ cùng nhau tóm lược lịch sử của loài người từ quá khứ đến tương lai.

Các Thời Kỳ Trong Lịch Sử Loài Người

Lịch sử loài người có thể được chia thành bảy thời kỳ khác nhau:

  • 1) Thời Kỳ Vô Tội.

  • 2) Thời Kỳ Trước Cơn Lụt Lớn.

  • 3) Thời Kỳ Lời Hứa.

  • 4) Thời Kỳ Giao Ước Cũ, tức Cựu Ước, còn gọi là Thời Kỳ Luật Pháp.

  • 5) Thời Kỳ Giao Ước Mới, tức Tân Ước, còn gọi là Thời Kỳ Ân Điển.

  • 6) Thời Kỳ Phán Xét Chung Cuộc.

  • 7) Thời Kỳ Trời Mới Đất Mới, còn gọi là Thời Kỳ Vương Quốc Đời Đời

Riêng Thời Kỳ Giao Ước Mới lại được chia thành ba thời kỳ khác nhau:

  • 1) Thời Kỳ Hội Thánh.

  • 2) Thời Kỳ Tận Thế bao gồm Thời Kỳ Đại Nạn.

  • 3) Thời Kỳ Vương Quốc Ngàn Năm Bình An.

Hiện tại, chúng ta đang sống trong những ngày cuối cùng của Thời Kỳ Hội Thánh, thuộc Thời Kỳ Giao Ước Mới. Không còn bao lâu nữa, Thời Kỳ Hội Thánh sẽ chấm dứt khi Đức Chúa Jesus Christ hiện ra giữa chốn không trung, để đem Hội Thánh ra khỏi thế gian và bắt đầu Thời Kỳ Tận Thế.

Dưới đây là phần tóm lược các thời kỳ trong lịch sử nhân loại.

I. Thời Kỳ Vô Tội (4114 TCN – ?TCN)

Thời kỳ vô tội bắt đầu từ khi loài người được sáng tạo và kết thúc khi khi loài người phạm tội, đem tội lỗi và hậu quả của tội lỗi vào trong toàn thế gian. Thánh Kinh không cho chúng ta biết thời kỳ này kéo dài trong bao lâu. Dựa trên một vài chi tiết trong Thánh Kinh mà chúng ta biết rằng, trong Thời Kỳ Vô Tội:

  • 1) Thức ăn của loài người là mọi thứ cỏ có hột và mọi loài trái cây có hột giống: “Thiên Chúa lại phán rằng: Nầy, Ta sẽ ban cho các ngươi mọi thứ cỏ kết hột mọc khắp mặt đất, và các loài cây sanh quả có hột giống; ấy sẽ là đồ ăn cho các ngươi” (Sáng Thế Ký 1:29); kể cả cây Sự Sống, ngoại trừ cây Biết Điều Thiện và Điều Ác: “Rồi, Giê-hô-va Thiên Chúa phán dạy rằng: Ngươi được tự do ăn hoa quả các thứ cây trong vườn; nhưng về cây biết điều thiện và điều ác thì chớ hề ăn đến; vì một mai ngươi ăn chắc sẽ chết” (Sáng Thế Ký 2:16-17).

  • 2) Thức ăn của mọi loài thú là mọi thứ cỏ xanh: “Còn các loài thú ngoài đồng, các loài chim trên trời, và các động vật khác trên mặt đất, phàm giống nào có sự sống thì Ta ban cho mọi thứ cỏ xanh đặng dùng làm đồ ăn; thì có như vậy” (Sáng Thế Ký 1:30).

  • 3) Thời tiết điều hòa, không có mưa mà chỉ có hơi nước bốc lên từ mặt đất để tưới đất: “Song có hơi nước dưới đất bay lên tưới khắp cùng mặt đất” (Sáng Thế Ký 2:6). Thời gian không có mưa này có lẽ kéo dài suốt 1656 năm, cho đến khi Cơn Lụt Lớn xảy ra, tiêu diệt mọi sinh vật trên đất, ngoại trừ gia đình Nô-ê và các thú vật ở trong tàu với ông.

  • 4) Loài người trần truồng mà không hổ thẹn: “Vả, A-đam và vợ, cả hai đều trần truồng, mà chẳng hổ thẹn” (Sáng Thế Ký 2:25). Chúng ta có thể hiểu rằng, khi loài người vô tội, thân thể xác thịt của loài người được bao phủ bởi vinh quang của Thiên Chúa, vì được dựng nên giống như Ngài, nên không bị lỏa lồ và không bị hại bởi môi trường sống. Chỉ khi loài người phạm tội, sự vinh quang của Thiên Chúa không còn bao phủ loài người nữa thì thân thể xác thịt của loài người mới bị lỏa lồ và dễ dàng bị đau ốm, thương tật bởi môi trường sống. Rô-ma 3:23 nói lên lẽ thật này: “Vì họ đều đã phạm tội và họ đang bị thiếu hụt sự vinh quang của Đức Chúa Trời.”

  • 5) Dù Thánh Kinh không nói rõ, nhưng chúng ta có thể hiểu rằng anh chị em ruột được phép kết hôn lẫn nhau để sinh sản, làm đầy dẫy đất.

  • 6) Loài người được giao cho quyền cai trị đất và muôn vật trên đất: “Thiên Chúa ban phước cho loài người và phán rằng: Hãy sanh sản, thêm nhiều, làm cho đầy dẫy đất; hãy làm cho đất phục tùng, hãy quản trị loài cá dưới biển, loài chim trên trời cùng các vật sống hành động trên mặt đất” (Sáng Thế Ký 1:28).

  • 7) Công việc chính của loài người vào lúc ban đầu là trồng và giữ vườn Ê-đen mà Thiên Chúa đã dựng nên: “Giê-hô-va Thiên Chúa đem người ở vào cảnh vườn Ê-đen để trồng và giữ vườn” (Sáng Thế Ký 2:15). Chúng ta có thể hiểu rằng, Thiên Chúa giao cho loài người phát triển vườn Ê-đen khắp đất.

Chúng ta nên hiểu rằng, đời sống của loài người không chỉ là trồng và giữ vườn, mà đó chỉ là công việc đầu tiên Thiên Chúa giao phó cho loài người, kèm theo thẩm quyền cai trị đất và muôn vật trên đất. Nói theo cách nói của Thánh Kinh, là khi loài người trung tín trong việc nhỏ thì Thiên Chúa sẽ giao cho việc lớn. Việc lớn là đồng trị với Thiên Chúa cho đến đời đời, cai trị tất cả cơ nghiệp của Thiên Chúa từ thuộc thể đến thuộc linh, bao gồm cả các thiên sứ và những sự mầu nhiệm của Thiên Chúa. Tiếc thay, loài người chưa chứng minh được sự trung tín hầu việc Chúa của mình thì đã phạm tội không tin cậy Thiên Chúa và làm nghịch lại ý muốn, lời phán của Thiên Chúa.

Ngày nay, mỗi một người thật lòng ăn năn tội, tin nhận sự chết chuộc tội của Đức Chúa Jesus Christ, được Đức Thánh Linh tái sinh thành một người mới trong Đức Chúa Jesus Christ đều đối diện với cùng một lựa chọn như A-đam trong thuở ban đầu: chọn hoàn toàn tin cậy Thiên Chúa và vâng phục Ngài hoặc không tin cậy Thiên Chúa, không vâng phục Ngài. Ngày xưa, Sa-tan qua con rắn, bẻ cong Lời Chúa, cám dỗ và lường gạt loài người. Ngày nay, Sa-tan qua các tổ chức giáo hội mang danh Chúa cũng bẻ cong Lời Chúa, cám dỗ và lường gạt những người đã được dựng nên mới trong Đức Chúa Jesus Christ. Bổn phận và trách nhiệm của mỗi một con dân Chúa là:

  • 1) Suy ngẫm Lời Chúa ngày đêm và cẩn thận làm theo thay vì làm theo các giáo lý không có trong Thánh Kinh hoặc nghịch lại Thánh Kinh của các giáo hội: “Quyển sách luật pháp này chớ xa miệng ngươi, hãy suy gẫm ngày và đêm, hầu cho cẩn thận làm theo mọi điều đã chép ở trong; vì như vậy ngươi mới được thịnh vượng trong con đường mình, và mới được phước” (Giô-suê 1:8).

  • 2) Theo gương dân thành Bê-rê, tra xét tất cả những lời giảng dạy của bất cứ ai xem có đúng với Thánh Kinh hay không: “Những người nầy có ý hẳn hoi hơn người Tê-sa-lô-ni-ca, đều sẵn lòng chịu lấy Đạo, ngày nào cũng tra xem Thánh Kinh, để xét lời giảng có thật chăng” (Công Vụ Các Sứ Đồ 17:11).

  • 3) Luôn ghi nhớ, chỉ có Thánh Kinh là lẽ thật của Đức Chúa Trời và có toàn quyền trên đời sống của con dân Chúa. Không một giáo lý nào, không một tư tưởng thần học nào, không một ý muốn của người nào… không có trong Thánh Kinh hoặc nghịch lại Thánh Kinh là thẩm quyền trên đời sống của con dân Chúa: “… Từ khi con còn thơ ấu đã biết Thánh Kinh vốn có thể khiến con khôn ngoan để được cứu bởi đức tin trong Đấng Christ Jesus. Cả Thánh Kinh đều là bởi Thiên Chúa hà hơi, có ích cho sự dạy dỗ, bẻ trách, sửa trị, dạy người trong sự công bình, hầu cho người thuộc về Đức Chúa Trời được trọn vẹn và sắm sẵn để làm mọi việc lành” (II Ti-mô-thê 3:15-17). Chỉ Thánh Kinh khiến cho một người trở nên trọn vẹn chứ không phải các giáo lý và các tư tưởng thần học của các giáo hội.

Lời Chúa cũng cho chúng ta biết, con dân của Chúa vẫn có thể bị diệt vì thiếu sự thông biết: “Dân Ta bị diệt vì cớ thiếu sự thông biết. Bởi ngươi bỏ sự thông biết thì Ta cũng bỏ ngươi, đặng ngươi không làm thầy tế lễ cho Ta nữa; bởi ngươi đã quên luật pháp của Thiên Chúa mình, thì Ta cũng sẽ quên con cái ngươi. Chúng nó sanh sản nhiều ra bao nhiêu, thì chúng nó lại phạm tội nghịch cùng Ta bấy nhiêu: Ta sẽ đổi sự vinh quang của chúng nó ra sỉ nhục” (Ô-sê 4:6-7). Chúng ta thiếu sự thông biết vì chúng ta không đọc và suy ngẫm Lời Chúa ngày đêm. Vì thiếu sự thông biết mà chúng ta không thể nhận ra những giáo sư giả và tiên tri giả, là điều mà chính Đức Chúa Jesus Christ đã cảnh báo cho Hội Thánh ngay từ những ngày trước khi Hội Thánh được thành lập (Ma-thi-ơ 7:15-23). Vì thiếu sự thông biết mà chúng ta khiến cho con cháu của mình cũng bị hủy diệt vì bỏ quên luật pháp của Chúa, điển hình là sự không vâng giữ Mười Điều Răn. Sự vinh quang chúng ta nhận được khi được Đức Thánh Linh tái sinh sẽ biến thành sỉ nhục và chúng ta sẽ mất đi địa vị thầy tế lễ mà Đức Chúa Jesus Christ đã ban cho chúng ta. Cuối cùng là chúng ta sẽ bị hư mất đời đời.

II. Thời Kỳ Trước Cơn Lụt Lớn (? TCN – 2458 TCN)

Thời kỳ này kéo dài gần 1656 năm, bắt đầu từ khi loài người phạm tội cho đến khi Thiên Chúa dùng một cơn lụt lớn để tiêu diệt loài người và mọi sinh vật khác trên đất, vì cớ “cả thế gian đều bại hoại trước mặt Thiên Chúa và đầy dẫy sự hung ác” (Sáng Thế Ký 6:11), ngoại trừ gia đình Nô-ê gồm tám người.

Vào năm 987 sau khi sáng thế (3127 TCN), Hê-nóc được cất lên, đi với Chúa, không phải trải qua sự chết: “Hê-nóc đồng đi cùng Thiên Chúa, rồi mất biệt, bởi vì Thiên Chúa tiếp người đi” (Sáng Thế Ký 5:24). “Bởi đức tin, Hê-nóc được cất lên và không hề thấy sự chết; người ta không thấy người nữa, vì Đức Chúa Trời đã tiếp người lên. Bởi chưng trước khi được tiếp lên, người đã được chứng rằng mình ở vừa lòng Đức Chúa Trời rồi” (Hê-bơ-rơ 11:5).

Sau đó 668 năm thì Thiên Chúa dùng một cơn lụt lớn để tiêu diệt thế gian. Theo Sáng Thế Ký 6:1-2 chúng ta có thể hiểu rằng, một số thiên sứ theo Sa-tan phạm tội, chống nghịch lại Thiên Chúa, bị đuổi ra khỏi thiên đàng, có lẽ đã theo sự dẫn dụ của Sa-tan, nhập vào trong các người đàn ông không kính sợ Chúa, kết hôn với các phụ nữ, và có con với họ. Sự kết hôn giữa những người đàn ông bị tà linh xâm nhập với các phụ nữ đã sinh ra những đứa con dị dạng, cao lớn khác thường và hung dữ, độc ác, khiến cho toàn thế gian bị bại hoại (Sáng Thế Ký 6:4). Rất có thể đây là một âm mưu thâm độc của Sa-tan, nhằm tìm cách vô hiệu hóa lời tiên tri của Thiên Chúa trong Sáng Thế Ký 3:15: “Ta sẽ làm cho ngươi cùng người nữ, dòng dõi ngươi cùng dòng dõi người nữ nghịch thù nhau. Người sẽ giày đạp đầu ngươi, còn ngươi sẽ cắn gót chân người.” Sa-tan hy vọng rằng, khi mọi người nam bị tà linh xâm nhập thì sẽ không thể nào có một dòng dõi thánh khiết ra từ phụ nữ. Tuy nhiên, Sa-tan đã thất bại, bởi vì:

  • Dòng dõi người nữ không ra từ sự kết hợp giữa một người nữ với một người nam mà là bởi thần quyền của Đức Thánh Linh, là Thiên Chúa Ngôi Con nhập thế làm người, trở nên bào thai trong lòng một trinh nữ.

  • Vẫn có gia đình Nô-ê gồm bốn người đàn ông và bốn người đàn bà kính sợ Chúa, sau này được Chúa dùng để tiếp tục dòng dõi của loài người sau Cơn Lụt Lớn. II Phi-e-rơ 2:5 gọi Nô-ê là “thầy giảng Đạo công bình.” Điều đó cho phép chúng ta hiểu rằng, trước khi Cơn Lụt Lớn xảy ra thì Nô-ê đã rao giảng về Thiên Chúa cho thế gian, ít ra là trong suốt 120 năm ông và các con đóng tàu, theo lệnh của Thiên Chúa.

Có một cách khác để giải thích Sáng Thế Ký 6:1-2: “Vả, khi loài người khởi thêm nhiều trên mặt đất, và khi loài người đã sanh được con gái rồi, các con trai của Thiên Chúa thấy con gái loài người tốt đẹp, bèn cưới người nào vừa lòng mình mà làm vợ,” cho rằng, “các con trai của Thiên Chúa” chính là các thiên sứ phạm tội đã đích thân kết hôn với phụ nữ của loài người chứ không phải họ nhập vào những người đàn ông. Theo cách giải thích này thì chúng ta có thể hiểu rằng, các thiên sứ phạm tội đã khiến cho các phụ nữ loài người mang thai một cách siêu nhiên, tương tự như sự bà Ma-ri mang thai đức Chúa Jesus bởi quyền năng của Đức Thánh Linh. Chính vì sự lạm quyền đó của một số các thiên sứ phạm tội mà Thiên Chúa đã phạt giam họ vào trong vực sâu không đáy nơi âm phủ, chứ không cho phép họ tiếp tục hành động trong chốn không trung và trên mặt đất như Sa-tan và các thiên sứ phạm tội khác: “… Đức Chúa Trời chẳng tiếc các thiên sứ đã phạm tội, nhưng quăng vào trong vực sâu, tại đó họ bị trói buộc bằng xiềng nơi tối tăm để chờ sự phán xét” (II Phi-e-rơ 2:4). Khoa học của loài người ngày nay có thể khiến cho một phụ nữ có thai mà không cần phải qua sự kết hợp tính dục với một người đàn ông cùng với kỹ thuật nhân chủng (cloning) giúp cho chúng ta phần nào hiểu rằng, những thiên sứ phạm tội có thể dùng quyền phép siêu nhiên của họ để khiến những phụ nữ của loài người sinh ra một dòng dõi hung dữ và độc ác, chống nghịch Thiên Chúa.

Ngay từ các dữ kiện trong thời kỳ này, chúng ta có thể thấy rõ các bài học và ý nghĩa hình bóng của các sự kiện trong lịch sử tiêu biểu cho những sự sẽ xảy ra cho thế giới trong tương lai:

  • Bởi đức tin và sống đẹp lòng Chúa mà Hê-nóc được cất lên TRƯỚC KHI Thiên Chúa đoán phạt toàn thế gian như thế nào, thì trong một ngày sắp đến, bởi đức tin và nếp sống đẹp lòng Chúa, Hội Thánh cũng sẽ được cất lên trước bảy năm đại nạn như thế đó. Điều đó sẽ làm ứng nghiệm lời tiên tri của Đức Chúa Jesus Christ trong Khải Huyền 3:10: “Vì ngươi đã giữ lời của sự nhẫn nại Ta, Ta cũng sẽ giữ ngươi khỏi giờ thử thách là giờ sẽ đến trên mọi người trong thế gian để thử nghiệm những kẻ ở trên đất.” Bảy năm đại nạn trong Thời Kỳ Tận Thế chính là “giờ thử thách là giờ sẽ đến trên mọi người trong thế gian để thử nghiệm những kẻ ở trên đất.”

  • Sau khi Hê-nóc được cất ra khỏi thế gian, bởi đức tin và sống đẹp lòng Chúa mà gia đình Nô-ê gồm tám người đã được giải cứu TRONG cơn đại nạn đoán phạt toàn thế gian, để sau đó tiếp nối dòng dõi loài người. Cũng vậy, sau khi Hội Thánh được cất ra khỏi thế gian, những ai có đức tin và sống đẹp lòng Chúa thì sẽ được cứu và sau đó tiếp nối dòng dõi loài người trong Vương Quốc Ngàn năm.

  • Sự băng hoại của thế gian lúc nào cũng có sự tích cực dự phần của Sa-tan và các thiên sứ phạm tội.

  • Khi toàn thế gian bị băng hoại bởi tội lỗi thì Thiên Chúa sẽ ra tay đoán phạt. Lần đoán phạt thứ nhất trên toàn thế gian là một cơn nước lụt bao phủ toàn cầu trong suốt một năm. Lần đoán phạt lần thứ hai trên toàn thế gian sẽ kéo dài gấp bảy lần (xem Lê-vi Ký 26), bằng bảy năm với các cơn đại nạn như đã được tiên tri trong sách Khải Huyền.

Trong Thời Kỳ Trước Cơn Lụt Lớn, tất cả những người chết trong tội lỗi đều bị hư mất đời đời. Gia đình Nô-ê được cứu khỏi cơn nước lụt và bước vào một thời kỳ mới: Thời Kỳ Lời Hứa. Số phận đời đời của họ tùy thuộc vào đức tin của họ nơi Thiên Chúa và sự trung tín vâng phục Thiên Chúa của họ. Nếu họ tiếp tục tin cậy Thiên Chúa và trung tín trong sự vâng phục Ngài cho đến chết thì họ sẽ được cứu rỗi bởi sự chết chuộc tội của Đức Chúa Jesus Christ, sẽ được sống lại trong thời Vương Quốc Ngàn Năm và sẽ được sống mãi trong Vương Quốc Đời Đời. Đó cũng là số phận của những thánh đồ trong Thời Kỳ Trước Cơn Lụt Lớn, đã qua đời trước cơn nước lụt, kể từ A-đam.

III. Thời Kỳ Lời Hứa (2457 TCN – 1446 TCN)

Thời Kỳ Lời Hứa bắt đầu từ khi gia đình Nô-ê ra khỏi tàu vào năm 2457 TCN và kéo dài đến năm 1446 TCN, khi dân I-sơ-ra-ên ra khỏi xứ Ai-cập và được Thiên Chúa thiết lập Mười Lời Giao Ước tại núi Si-na-i.

Trong Thời Kỳ Lời Hứa:

  • Thiên Chúa nhắc lại mệnh lệnh loài người phải sinh sản, làm cho đầy dẫy đất: “Thiên Chúa ban phước cho Nô-ê cùng các con trai người, mà phán rằng: Hãy sanh sản, thêm nhiều, làm cho đầy dẫy trên mặt đất” (Sáng Thế Ký 9:1); “Vậy, các ngươi hãy sanh sản, thêm nhiều, và làm cho đầy dẫy trên mặt đất” (Sáng Thế Ký 9:7).

  • Thiên Chúa cho phép loài người được ăn các loại thịt nhưng cấm ăn huyết: “Phàm vật chi hành động và có sự sống thì dùng làm đồ ăn cho các ngươi. Ta cho mọi vật đó như Ta đã cho thứ cỏ xanh. Song các ngươi không nên ăn thịt còn hồn sống, nghĩa là có máu” (Sáng Thế Ký 9:3-4).

  • Thiên Chúa lên án chết những kẻ giết người: “Hễ kẻ nào làm đổ máu người, thì sẽ bị người khác làm đổ máu lại; vì Thiên Chúa làm nên người như hình của Ngài” (Sáng Thế Ký 9:6).

Trong Thời Kỳ Lời Hứa có hai lời hứa được Thiên Chúa thiết lập với loài người:

  • Lời hứa thứ nhất do Nô-ê tiếp nhận, Thiên Chúa hứa rằng sẽ không bao giờ tiêu diệt toàn thế gian bằng một cơn lụt lớn và Ngài dùng cầu vòng làm dấu hiệu bảo đảm cho lời hứa của Ngài (Sáng Thế Ký 9:8-17). Chúng ta biết, hiện tượng cầu vòng xảy ra là vì hơi nước trong không trung phản chiếu ánh sáng từ mặt trời. Sự kiện Thiên Chúa dùng cầu vòng làm dấu hiệu bảo đảm cho lời hứa của Ngài giúp cho chúng ta hiểu rằng, trước Cơn Lụt Lớn không hề có hơi nước trong không trung, vì thế cũng không hề có mưa. Cơn Lụt Lớn vừa là những sự chấn động mạnh trong lòng đất làm cho các mạch nước ngầm phun lên, vừa là sự sụp đổ của vòng nước bao phủ chung quanh địa cầu ở ngoài không gian, tạo ra những cơn mưa lớn: “Nhằm năm sáu trăm của đời Nô-ê, tháng hai, ngày mười bảy, chánh ngày đó, các nguồn của vực lớn nổ ra, và các đập trên trời mở xuống; mưa sa trên mặt đất trọn bốn mươi ngày và bốn mươi đêm.” (Sáng Thế Ký 7:11-12). Các đập trên trời tức là các khối nước ở ngoài không gian, bao phủ địa cầu, có tác dụng như một lồng kính lớn để điều hòa thời tiết trên đất và ngăn các tia phóng xạ độc hại, đã được Thiên Chúa dựng nên trong ngày thứ nhì (Sáng Thế Ký 1:6-8).

  • Lời hứa thứ nhì do Áp-ra-ham tiếp nhận.

Về mặt thuộc linh là lời hứa về sự cứu rỗi cho mọi dân tộc:

Ta sẽ làm cho ngươi nên một dân lớn; Ta sẽ ban phước cho ngươi, cùng làm nổi danh ngươi, và ngươi sẽ thành một nguồn phước. Ta sẽ ban phước cho người nào chúc phước cho ngươi, rủa sả kẻ nào rủa sả ngươi; và các chi tộc nơi thế gian sẽ nhờ ngươi mà được phước” (Sáng Thế Ký 12:2-3).

Nầy, phần Ta đây, Ta đã lập giao ước cùng ngươi; vậy ngươi sẽ trở nên tổ phụ của nhiều dân tộc” (Sáng Thế Ký 17:4).

Như Áp-ra-ham tin Đức Chúa Trời, thì đã kể là công bình cho người, vậy anh em hãy nhận biết rằng những kẻ có đức tin là con cháu thật của Áp-ra-ham. Thánh Kinh cũng biết trước rằng Đức Chúa Trời sẽ xưng dân ngoại là công bình bởi đức tin, nên đã rao truyền trước cho Áp-ra-ham tin lành nầy: Các dân sẽ nhờ ngươi mà được phước. Ấy vậy, ai tin thì nấy được phước với Áp-ra-ham, là người có lòng tin” (Ga-la-ti 3:6-9).

Lại nếu anh em thuộc về Đấng Christ, thì anh em là dòng dõi của Áp-ra-ham, tức là kẻ kế tự theo lời hứa” (Ga-la-ti 3:29).

Về mặt thuộc thể là lời hứa về sản nghiệp trên đất cho dòng dõi của Áp-ra-ham, tức là dân I-sơ-ra-ên:

Sau khi Lót lìa khỏi Áp-ram rồi, Đức Giê-hô-va phán cùng Áp-ram rằng: Hãy nhướng mắt lên, nhìn từ chỗ ngươi cho đến phương bắc, phương nam, phương đông và phương tây: Vì cả xứ nào ngươi thấy, Ta sẽ ban cho ngươi và cho dòng dõi ngươi đời đời. Ta sẽ làm cho dòng dõi ngươi như bụi trên đất; thế thì, nếu kẻ nào đếm đặng bụi trên đất, thì cũng sẽ đếm đặng dòng dõi ngươi vậy. Hãy đứng dậy đi khắp trong xứ, bề dài và bề ngang; vì Ta sẽ ban cho ngươi xứ nầy” (Sáng Thế Ký 13:14-17).

Ta sẽ lập giao ước cùng ngươi, và cùng hậu tự ngươi trải qua các đời; ấy là giao ước đời đời, hầu cho Ta làm Thiên Chúa của ngươi và của dòng dõi ngươi. Ta sẽ cho ngươi cùng dòng dõi ngươi xứ mà ngươi đương kiều ngụ, tức toàn xứ Ca-na-an, làm cơ nghiệp đời đời. Vậy, Ta sẽ làm Thiên Chúa của họ” (Sáng Thế Ký 17:7-8).

Vì vậy, xứ Ca-na-an, tức xứ Palestine ngày nay, đời đời sẽ là đất của Thiên Chúa ban cho dân I-sơ-ra-ên. Không bao giờ có một quốc gia Palestine sẽ được thành lập trên vùng đất này, bất chấp sức mạnh của Liên Hiệp Quốc và các khối Hồi Giáo.

Trong Thời Kỳ Lời Hứa, ai không tin cậy, không vâng phục Thiên Chúa thì bị hư mất đời đời, ai tin cậy và vâng phục Thiên Chúa cho đến chết thì họ sẽ được cứu rỗi bởi sự chết chuộc tội của Đức Chúa Jesus Christ, sẽ được sống lại trong thời Vương Quốc Ngàn Năm, và sẽ được sống mãi trong Vương Quốc Đời Đời.

IV. Thời Kỳ Giao Ước Cũ (1446 TCN – 27)

Thời Kỳ Giao Ước Cũ còn gọi là Thời Kỳ Cựu Ước hoặc Thời Kỳ Luật Pháp bắt đầu từ năm 1446 TCN là khi dân I-sơ-ra-ên ra khỏi Ai-cập cho đến năm 27, khi Đức Chúa Jesus Christ hoàn thành công cuộc cứu chuộc nhân loại trên thập tự giá.

Vào tháng thứ ba, sau khi dân I-sơ-ra-ên ra khỏi xứ Ai-cập và đi đến chân núi Si-na-i thì Thiên Chúa kết một giao ước với loài người qua dân I-sơ-ra-ên, mà Tiên Tri Môi-se thay mặt nhận lãnh trên núi Si-na-i. Nói là Thiên Chúa kết giao ước với loài người qua dân I-sơ-ra-ên là vì giao ước đó không chỉ có hiệu lực riêng cho dân I-sơ-ra-ên mà là có hiệu lực chung cho tất cả những ai chịu đón nhận giao ước, bằng cách hội nhập với dân I-sơ-ra-ên. Thánh Kinh cho biết, trong ngày dân I-sơ-ra-ên ra khỏi Ai-cập, có vô số người từ các dân tộc khác đi theo: “Lại có vô số người ngoại bang đi lên chung luôn với chiên, bò, súc vật rất nhiều” (Xuất Ê-díp-tô Ký 12:38); và chính Thiên Chúa phán: “Các người dân ngoại về cùng Đức Giê-hô-va, đặng hầu việc Ngài, đặng yêu mến danh Đức Giê-hô-va, đặng làm tôi tớ Ngài; tức là hết thảy những kẻ giữ ngày Sa-bát cho khỏi ô uế, và cầm vững lời giao ước Ta, thì Ta sẽ đem họ vui mừng trong nhà cầu nguyện Ta. Của lễ thiêu và hi sinh họ dâng trên bàn thờ Ta, sẽ được nhận lấy; vì nhà Ta sẽ gọi là nhà cầu nguyện cho mọi dân tộc” (Ê-sai 56:6-7).

Giao ước mà Thiên Chúa kết với loài người qua dân I-sơ-ra-ên trên núi Si-na-i là giao ước mà các người dân ngoại về cùng Đức Giê-hô-va phải cầm vững, tức là phải hết lòng vâng giữ. Giao ước đó chính là Mười Lời Thiên Chúa chép trên hai bảng đá mà chúng ta quen gọi là Mười Điều Răn. Thánh Kinh nguyên ngữ Hê-bơ-rơ không gọi là “Mười Điều Răn” nhưng gọi đó là “Mười Lời:”

Môi-se ở đó cùng Đức Giê-hô-va trong bốn mươi ngày và bốn mươi đêm, không ăn bánh, cũng không uống nước; Đức Giê-hô-va chép trên hai bảng đá các lời giao ước, tức là mười lời(Xuất Ê-díp-tô Ký 34:28 ).

Ngài rao truyền cho các ngươi biết sự giao ước của Ngài, khiến các ngươi gìn giữ lấy, và Ngài chép mười lời ấy trên hai bảng đá” (Phục Truyền Luật Lệ Ký 4:13)

Ngài viết trên hai bảng nầy lời Ngài đã viết lần trước, tức là mười lời mà Đức Giê-hô-va từ giữa lửa tại trên núi, có phán cùng các ngươi, trong ngày nhóm hiệp; rồi Đức Giê-hô-va trao cho ta” (Phục Truyền Luật Lệ Ký 10:4)

Trong Thời Kỳ Giao Ước Cũ:

  • 1) Thiên Chúa nhắc lại cho loài người tiêu chuẩn đạo đức của Ngài bằng cách chính tay Ngài chép ra tiêu chuẩn ấy trên hai bảng đá. Nên nhớ, không phải chờ đến lúc này Thiên Chúa mới thiết lập các điều răn của Ngài, mà là, tại thời điểm này, các điều răn của Thiên Chúa được chính Ngài chép thành chữ trên hai bảng đá. Trước đó hơn 400 năm, Áp-ra-ham đã nhận biết và vâng giữ các điều răn và luật pháp của Thiên Chúa: “… Áp-ra-ham đã vâng theo tiếng Ta, đã giữ gìn sự chỉ định của Ta, các điều răn của Ta, các luật lệ của Ta, các luật pháp của Ta” (Sáng Thế Ký 26:5).

  • 2) Thiên Chúa truyền lệnh cấm loài người ăn thịt những thú vật không tinh sạch (Lê-vi Ký 11).

  • 3) Thiên Chúa truyền lệnh cấm những quan hệ tính dục giữa bà con thân tộc.

  • 4) Thiên Chúa thiết lập các luật vệ sinh và dân sự.

  • 5) Thiên Chúa thiết lập các nghi thức thờ phượng Thiên Chúa, trong đó, có mạng lệnh xây dựng đền tạm để làm nơi thờ phượng Thiên Chúa.

  • 6) Thiên Chúa thiết lập các nghi thức về việc dâng tế lễ chuộc tội và các của lễ khác để tiêu biểu cho sự chết chuộc tội của Đức Chúa Jesus Christ và sự dâng hiến của con dân Chúa.

  • 7) Thiên Chúa ban truyền các ngày lễ hội, gọi là các lễ hội của Đức Giê-hô-va, để tiêu biểu cho những điều mà Thiên Chúa sẽ làm trong lịch sử của loài người, được tóm lược trong Lê-vi Ký 23. Có bảy ngày lễ hội:

  • Lễ Vượt Qua, nhằm ngày 14 tháng Giêng (tháng Nisan): làm hình bóng về sự Đức Chúa Jesus Christ, là Chiên Con không tì không vít của Đức Chúa Trời, dâng chính mạng sống mình làm sinh tế chuộc tội cho nhân loại. Từ Lễ Vượt Qua, Đức Chúa Jesus Christ đã thiết lập Lễ Tiệc Thánh. Đây là một trong ba lễ quan trọng (hai lễ khác là Lễ Ngũ Tuần và Lễ Lều Tạm) mà mọi con dân Chúa phải về thờ phượng Chúa tại đền thờ của Ngài ở Giê-ru-sa-lem.

  • Lễ Bánh Không men, bắt đầu từ ngày 15 cho đến hết ngày 22 tháng Giêng. Cả ngày đầu và ngày cuối của Lễ Bánh Không Men đều là ngày Sa-bát (khác với ngày Sa-bát mỗi cuối tuần). Lễ này tiêu biểu cho đời sống mới thánh sạch của con dân Chúa sau khi được Đức Chúa Trời tha tội và được Đức Chúa Jesus Christ làm cho sạch tội. Bánh tiêu biểu cho đời sống, men tiêu biểu cho tội lỗi. Bánh không men tiêu biểu cho đời sống không vướng tội. Bảy ngày đầu tiêu biểu cho suốt thời gian trong cuộc đời của người theo Chúa, bắt đầu bằng một ngày dành riêng để tương giao với Chúa. Ngày thứ tám tiêu biểu cho đời sống mới thánh khiết trong Vương Quốc của Đức Chúa Trời, kéo dài mãi mãi, trong sự tương giao mật thiết với Chúa, không còn bận rộn với những việc làm của xác thịt.

  • Lễ Dâng Bó Lúa Đầu Mùa nhằm ngày 16 tháng Giêng. Lễ này tiêu biểu cho hy vọng về sự phục sinh của Đức Chúa Jesus Christ và thành quả từ sự chết của Ngài. Lễ này không tiêu biểu cho sự Chúa sống lại, vì Chúa không phục sinh vào ngày 16 tháng Giêng, mà Chúa phục sinh vào cuối ngày 17 tháng Giêng. Lễ này cũng tiêu biểu cho hy vọng về sự sống lại của những người tin Chúa và báo trước về sự Hội Thánh sẽ được thành lập.

  • Lễ Ngũ Tuần, còn gọi là Lễ Các Tuần Lễ hoặc Lễ Mùa Gặt, nhằm ngày thứ 50 sau bảy tuần lễ, kể từ ngày Sa-bát đầu tiên của Lễ Bánh Không Men, là một ngày Sa-bát (khác với ngày Sa-bát mỗi cuối tuần). Lễ này luôn luôn rơi vào ngày 6 tháng 3 (tháng Sivan) và không nhất thiết phải là ngày thứ nhất, tức chủ nhật, trong tuần lễ. Truyền thống của các giáo hội Cơ-đốc Giáo cho rằng Lễ Ngũ Tuần nhằm ngày thứ nhất trong tuần lễ là không đúng [1]. Lễ này kỹ niệm 50 ngày sau khi ra khỏi Ai-cập, dân I-sơ-ra-ên tiếp nhận giao ước của Đức Chúa Trời và trở thành một dân tộc thánh biệt riêng cho Đức Chúa Trời. Lễ này cũng tiêu biểu cho thành quả từ sự chết của Đức Chúa Jesus Christ: nhiều người được cứu, được tái sinh (sống lại phần thuộc linh) và kết hợp thành Hội Thánh của Đức Chúa Trời, tiếp nhận luật pháp của Đức Chúa Trời được Đức Thánh Linh ghi chép trong lòng:

Đức Giê-hô-va phán: Nầy là giao ước mà Ta sẽ lập với nhà I-sơ-ra-ên sau những ngày đó. Ta sẽ đặt luật pháp Ta bên trong chúng nó và chép vào lòng. Ta sẽ làm Thiên Chúa chúng nó, chúng nó sẽ làm dân Ta” (Giê-rê-mi 31:33).

Nầy là lời ước mà Ta sẽ lập với nhà I-sơ-ra-ên. Sau những ngày đó: Ta sẽ để luật pháp Ta trong trí họ và ghi tạc vào lòng; Ta sẽ làm Thiên Chúa của họ, họ sẽ làm dân Ta” (Hê-bơ-rơ 8:10).

Chúa phán: Nầy là giao ước Ta lập với chúng nó. Sau những ngày đó, Ta sẽ để luật pháp Ta vào lòng chúng nó và ghi tạc nơi trí khôn” (Hê-bơ-rơ 10:16).

  • Lễ Thổi Kèn, nhằm ngày 1 tháng 7 (tháng Tishri), là một ngày Sa-bát (khác với ngày Sa-bát mỗi cuối tuần). Lễ này là một ngày nghỉ dành cho dân I-sơ-ra-ên, tiêu biểu cho sự an nghỉ của con dân Chúa trong Hội Thánh trong ngày Chúa trở lại để đem Hội Thánh ra khỏi thế gian, vì thế, Lễ này còn được tiêu biểu cho sự kiện tiếng kèn sẽ thổi, báo hiệu ngày Chúa xuất hiện giữa chốn không trung để ban sự an nghỉ cho Hội Thánh của Ngài. Xa hơn nữa là tiêu biểu cho tiếng kèn báo hiệu thời điểm mở đầu của Vương Quốc Ngàn Năm và Vương Quốc Đời Đời.

  • Lễ Chuộc Tội, nhằm ngày 10 tháng 7 (tháng Tishri), là một ngày Sa-bát (khác với ngày Sa-bát mỗi cuối tuần). Tiêu biểu cho ngày kỷ niệm mọi tội lỗi của toàn thể thánh đồ của Chúa trong mọi thời đại đều được xóa sạch, để chuẩn bị cho ngày bước vào Vương Quốc Đời Đời.

  • Lễ Lều Tạm, bắt đầu từ ngày 15 đến hết ngày 22 tháng 7 (tháng Tishri). Cả ngày đầu và ngày cuối của Lễ Lều Tạm đều là ngày Sa-bát (khác với ngày Sa-bát mỗi cuối tuần). Lễ này kỷ niệm sự dân I-sơ-ra-ên ra khỏi ách nô lệ của Ai-cập và Pha-ra-ôn, được Thiên Chúa ở cùng, tiêu biểu cho sự Thiên Chúa sẽ nhập thế làm người, ở cùng nhân loại, đem nhân loại ra khỏi ách nô lệ của tội lỗi và Sa-tan. Ngoài ra, lễ Lều Tạm còn tiêu biểu cho sự kiện con dân Chúa được tự do vui sống trong sự hiện diện và cai trị của Đấng Em-ma-nu-ên trong Thời Kỳ Vương Quốc Ngàn Năm và trong Thời Kỳ Vương Quốc Đời Đời.

Trong Thời Kỳ Giao Ước Cũ, ai không tin cậy, không vâng phục Thiên Chúa thì bị hư mất đời đời, ai tin cậy và vâng phục Thiên Chúa cho đến chết, bằng cách thể hiện sự vâng giữ các điều răn của Thiên Chúa, thì họ sẽ được cứu rỗi bởi sự chết chuộc tội của Đức Chúa Jesus Christ, sẽ được sống lại trong thời Vương Quốc Ngàn Năm, và sẽ được sống mãi trong Vương Quốc Đời Đời.

Chúng ta cần chú ý đến chi tiết này: Không một người nào có thể vâng giữ trọn vẹn các điều răn của Thiên Chúa để nhờ đó mà được cứu, nhưng trong thời Cựu Ước, một người muốn được cứu thì phải thể hiện lòng vâng phục Thiên Chúa qua sự vâng giữ các điều răn của Ngài. Những sự không trọn vẹn được tha thứ bởi sự dâng sinh tế chuộc tội. Trong thời Tân Ước, một người đã được cứu thì được ban cho Thánh Linh của Thiên Chúa để có thể vâng giữ các điều răn của Thiên Chúa tốt hơn là các thánh đồ Thời Cựu Ước. Chính sự hết lòng vâng giữ các điều răn của Thiên Chúa chứng minh rằng người ấy đã thật sự ăn năn tội, đã thật sự vâng phục Thiên Chúa, và đã thật sự được cứu. Những vi phạm vì yếu đuối, vì vô ý sẽ được tha thứ bởi sự đổ huyết của Đức Chúa Jesus Christ. Người cố ý không vâng giữ các điều răn của Thiên Chúa là người không có sự cứu rỗi.

Đón Xem Phần 2

Bấm vào nối mạng dưới đây để tải xuống mp3 bài giảng này:
http://www.mediafire.com/?hou85bs0gidvsu5

Bấm vào nút “play” ► để nghe: