Các danh hiệu của Đức Chúa Trời: El

3,175 views

I. El (Đức Chúa Trời) 

1. El Echad [Eol Ek-hađ] = Đức Chúa Trời có một:

“Hết thảy chúng ta chẳng phải là có chung một cha sao? Chẳng phải chỉ có một Đức Chúa Trời đã dựng nên chúng ta sao? Vậy sao ai nấy đãi anh em mình cách gian dối, phạm giao ước của tổ phụ chúng ta?” (Ma-la-chi 2:10)

2. El Hanne’eman [Eol Han-ne-e-man] = Đức Chúa Trời thành tín:

“Vậy nên, phải nhận biết rằng Giê-hô-va Đức Chúa Trời ngươi, ấy là Đức Chúa Trời, tức Đức Chúa Trời thành tín, giữ sự giao ước và nhân từ đến ngàn đời cho những người yêu mến Ngài và vâng giữ các điều răn Ngài.” (Phục Truyền Luật Lệ Ký 7:9)

3. El Emet [Eol Ê-met] = Đức Chúa Trời chân thật:

“Tôi phó thác thần linh tôi vào tay Chúa: Hỡi Giê-hô-va, là Đức Chúa Trời chân thật, Ngài đã chuộc tôi.” (Thi Thiên 31:5)

4. El Tsaddik [Eol Shad-đik] = Đức Chúa Trời công chính:

“Vậy hãy truyền rao; hãy bảo chúng nó đến gần, và nghị luận cùng nhau! Từ đời xưa ai đã rao ra sự nầy? ai đã tỏ ra từ lúc thượng cổ? Há chẳng phải ta, là Đức Giê-hô-va, sao? Ngoài ta chẳng có Đức Chúa Trời nào khác! chẳng có Đức Chúa Trời công bình nào khác và là Cứu Chúa ngoài ta.” (Ê-sai 45:21)

5. El Shaddai [Eol Sha-đai] = Đức Chúa Trời toàn năng:

“Khi Áp-ram được chín mươi chín tuổi, thì Đức Giê-hô-va hiện đến cùng người và phán rằng: Ta là Đức Chúa Trời toàn năng; ngươi hãy đi ở trước mặt ta làm một người trọn vẹn.” (Sáng Thế Ký 17:1)

6. El Elyon [Eol Eol-dôn] = Đức Chúa Trời chí cao:

“Đáng ngợi khen thay Đức Chúa Trời chí cao đã phó kẻ thù nghịch vào tay ngươi!” (Sáng Thế Ký 14:20a)

“Hỡi Đấng chí cao, tôi sẽ vui vẻ, hớn hở nơi Ngài, Và ca tụng danh của Ngài.” (Thi Thiên 9:2)

7. El Olam [Eol Ô-lam] = Đức Chúa Trời hằng hữu:

“Áp-ra-ham trồng một cây me tại Bê-e-sê-ba, và ở đó người cầu khẩn danh Đức Giê-hô-va, là Đức Chúa Trời hằng-hữu.” (Sáng Thế Ký 21:33)

8. El Roi [Eol Rô-i] = Đức Chúa Trời hay đoái xem:

“Nàng gọi Đức Giê-hô-va mà đã phán cùng mình, danh là “Đức Chúa Trời hay đoái xem,” vì nàng nói rằng: Chính tại đây, tôi há chẳng có thấy được Đấng đoái xem tôi sao?” (Sáng Thế Ký 16:13)

9. El Gibbor [Eol Ghíp-bo-r] = Đức Chúa Trời quyền năng:

“Vì có một con trẻ sanh cho chúng ta, tức là một con trai ban cho chúng ta; quyền cai trị sẽ nấy trên vai Ngài. Ngài sẽ được xưng là Đấng Lạ lùng, là Đấng Mưu luận, là Đức Chúa Trời Quyền năng, là Cha Đời đời, là Chúa Bình an.” (Ê-sai 9:6)

10. El De’ot [Eol Đe-ốt] = Đức Chúa Trời thông biết mọi điều:

“Thôi, chớ nói những lời kiêu ngạo, chớ để những lời xấc xược ra từ miệng các ngươi nữa; Vì Giê-hô-va là Đức Chúa Trời thông biết mọi điều, Ngài cân nhắc mọi việc làm của ngươi.” (1 Sa-mu-ên 2:3)

11. El Haggadol [Eol Ha-ga-đô-l] = Đức Chúa Trời vĩ đại:

“Vì Giê-hô-va Đức Chúa Trời các ngươi là Đức Chúa Trời của các thần, và Chúa của các chúa, tức là Đức Chúa Trời rất lớn, có quyền năng và đáng sợ, không thiên vị ai, chẳng nhận của hối lộ…” (Phục Truyền Luật Lệ Ký 10:17)

12. El Hakkavod [Eol Ha-ka-vô-đ] = Đức Chúa Trời vinh hiển:

“Tiếng Đức Giê-hô-va dội trên các nước; Giê-hô-va Đức Chúa Trời vinh hiển sấm sét trên các nước sâu.” (Thi Thiên 29:3)

13. El Hakkadosh [Eol Ha-ka-đôsh] = Đức Chúa Trời thánh khiết:

“Song Đức Giê-hô-va vạn quân lên cao trong sự công chính, Đức Chúa Trời là Đấng Thánh nên thánh trong sự công bình.” (Ê-sai 5:16)

14. El Hashamayim [Eol Ha-sha-may-im] = Đức Chúa Trời của các tầng trời:

“Hãy cảm tạ Đức Chúa Trời của các tầng trời! Vì sự nhơn từ Ngài còn đến đời đời.” (Thi Thiên 126:36)

15. El Chaiyai [Eol Phai-dai] = Đức Chúa Trời của mạng sống tôi:

“Dầu vậy, ban ngày Đức Giê-hô-va sẽ sai khiến sự nhơn từ Ngài; Còn ban đêm bài hát Ngài ở cùng tôi, tức là bài cầu nguyện cùng Đức Chúa Trời của mạng sống tôi.” (Thi Thiên 42:8)

16. El Channun [Eol Phan-nun] = Đức Chúa Trời nhân từ:

“Người cầu nguyện Đức Giê-hô-va rằng: Hỡi Đức Giê-hô-va, tôi cầu xin Ngài, ấy há chẳng phải là điều tôi đã nói khi tôi còn ở trong xứ tôi sao? Vì đó nên tôi lật đật trốn qua Ta-rê-si vậy. Bởi tôi biết rằng Ngài là Đức Chúa Trời nhân từ, thương xót, chậm giận, giàu ơn, và đổi ý không xuống tai vạ.” (Giô-na 4:2)

17. El Yisrael [Eol Dis-ra-eo-l] = Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên:

“Hỡi Đức Chúa Trời, Chúa thật đáng sợ trong nơi thánh Chúa: Chính Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên ban sức lực và quyền năng cho dân sự Ngài. Đáng ngợi khen Đức Chúa Trời thay!” (Thi Thiên 68:35)

18. El Sali [Eol Sa-li] = Đức Chúa Trời là vầng đá (sức mạnh) của tôi:

“Tôi sẽ thưa cùng Đức Chúa Trời, là vầng đá tôi, rằng: Cớ sao Chúa quên tôi? Nhơn sao tôi phải buồn thảm Vì cớ kẻ thù nghịch hà hiếp tôi?” (Thi Thiên 42:9)

19. El Rachum [Eol Ra-hum] = Đức Chúa Trời hay thương xót:

“Vì Giê-hô-va Đức Chúa Trời ngươi là Đức Chúa Trời hay thương xót sẽ không bỏ ngươi và không hủy diệt ngươi đâu; cũng chẳng quên sự giao ước mà Ngài đã thề cùng các tổ phụ ngươi.” (Phục Truyền Luật Lệ Ký 4:31)

20. El Yeshuati [Eol Dê-shu-a-ti] = Đức Chúa Trời là sự cứu rỗi của tôi:

“Nầy, Đức Chúa Trời là sự cứu rỗi tôi; tôi sẽ tin cậy và không sợ hãi. Vì Đức Giê-hô-va, chính Đức Giê-hô-va, là sức mạnh của tôi, lời ca tụng của tôi; Ngài đã nên sự cứu rỗi tôi.” (Ê-sai 12:2)

21. El Yeshuatenu [Eol Dê-shu-a-tê-nu] = Đức Chúa Trời là sự cứu rỗi của chúng ta:

“Đáng ngợi khen Chúa thay, Là Đấng hằng ngày gánh gánh nặng của chúng tôi, tức là Đức Chúa Trời sự cứu rỗi của chúng tôi.” (Thi Thiên 68:19)

22. El Kanno [Eol Kan-nô] = Đức Chúa Trời ghen tỵ:

“Ngươi chớ quì lạy trước các hình tượng đó, và cũng đừng hầu việc chúng nó; vì ta là Giê-hô-va Đức Chúa Trời ngươi, tức là Đức Chúa Trời ghen tỵ, hễ ai ghét ta, ta sẽ nhơn tội tổ phụ phạt lại con cháu đến ba bốn đời.” (Xuất Ê-díp-tô Ký 20:5) * Bản dịch Phan Khôi dịch là “Đức Chúa Trời kỵ tà” không đúng với nguyên tác.

23. Immanuel [Im-ma-nu-eol] = Đức Chúa Trời ở cùng chúng ta:

“Vậy nên, chính Chúa sẽ ban một điềm cho các ngươi: nầy một gái đồng trinh sẽ chịu thai, sanh ra một trai, và đặt trên là Em-ma-nu-ên.” (Ê-sai 7:14)

“Nầy, một gái đồng trinh sẽ chịu thai, và sanh một con trai, Rồi người ta sẽ đặt tên con trai đó là Em-ma-nu-ên; nghĩa là: Đức Chúa Trời ở cùng chúng ta.” (Ma-thi-ơ 1:23) 

Kết luận

Qua tất cả các danh xưng trên đây của Đức Chúa Trời, chúng ta nhận biết được các lẽ thật về Ngài. Những lẽ thật đó bày tỏ sự thực hữu và hằng hữu của Đức Chúa Trời, bày tỏ sự thánh khiết và quyền năng cả thể của Ngài. Những lẽ thật đó cũng bày tỏ Đức Chúa Trời có một và vĩ đại là vô cùng công bình, thương xót, và thành tín đối với nhân loại.

Cảm tạ Đức Chúa Trời, vì chúng ta được Ngài ở cùng chúng ta và ban cho chúng ta quyền phép trở nên con cái của Ngài.

Huỳnh Christian Timothy
20/05/2007