Sự Mầu Nhiệm Của Tình Yêu Vợ Chồng Trong Chúa

3,511 views

Thánh Kinh: Ê-phê-sô 5:22-33

22 Hỡi kẻ làm vợ, phải vâng phục chồng mình như vâng phục Chúa,
23 vì chồng là đầu vợ, khác nào Đấng Christ là đầu Hội thánh, Hội thánh là thân thể Ngài, và Ngài là Cứu Chúa của Hội thánh.
24 Ấy vậy, như Hội thánh phục dưới Đấng Christ, thì đờn bà cũng phải phục dưới quyền chồng mình trong mọi sự.
25 Hỡi người làm chồng, hãy yêu vợ mình, như Đấng Christ đã yêu Hội thánh, phó chính mình vì Hội thánh,
26 để khiến Hội nên thánh sau khi lấy nước rửa và dùng Đạo làm cho Hội tinh sạch,
27 đặng tỏ ra hội thánh đầy vinh hiển, không vết, không nhăn, không chi giống như vậy, nhưng thánh sạch không chỗ trách được ở trước mặt Ngài.
28 Cũng một thể ấy, chồng phải yêu vợ như chính thân mình. Ai yêu vợ mình thì yêu chính mình vậy.
29 Vì chẳng hề có người nào ghét chính thân mình, nhưng nuôi nấng săn sóc nó như Đấng Christ đối với Hội thánh,
30 vì chúng ta là các chi thể của thân Ngài.
31 Vậy nên người đờn ông phải lìa cha mẹ mà dính díu với vợ mình, hai người cùng nên một thịt.
32 Sự mầu nhiệm ấy là lớn, tôi nói về Đấng Christ và Hội thánh vậy.
33 Thế thì mỗi người trong anh em phải yêu vợ mình như mình, còn vợ thì phải kính chồng.”

Dẫn nhập

Lời của Chúa là Thánh Kinh cho chúng ta biết:Tình yêu giữa vợ chồng là một sự mầu nhiệm! Theo Thánh Kinh thì sự mầu nhiệm là sự vốn kín dấu, khó hiểu mà chỉ những ai được Đức Chúa Trời bày tỏ cho thì người ấy mới có thể nhận thức được [1]. Dầu vậy, mức độ nhận thức của mỗi người có thể khác nhau. Sự khác nhau ấy tùy thuộc vào tấm lòng yêu kính Chúa và vâng phục Chúa của mỗi người.

Hôm nay, chúng ta hãy cùng nhau tìm hiểu sự mầu nhiệm của tình yêu vợ chồng được Đức Thánh Linh bày tỏ trong Ê-phê-sô 5:22-23.


I. Vợ vâng phục chồng như vâng phục Chúa

22 Hỡi kẻ làm vợ, phải vâng phục chồng mình như vâng phục Chúa,
23 vì chồng là đầu vợ, khác nào Đấng Christ là đầu Hội thánh, Hội thánh là thân thể Ngài, và Ngài là Cứu Chúa của Hội thánh.
24 Ấy vậy, như Hội thánh phục dưới Đấng Christ, thì đờn bà cũng phải phục dưới quyền chồng mình trong mọi sự.

Ngay từ thuở ban đầu, lúc dựng nên A-đam và Ê-va, Đức Chúa Trời ban cho ông bà quyền cai trị đất và muôn vật trên đất nhưng Ngài không hề đặt để người nào cầm quyền trên người nào. Chỉ sau khi Ê-va phạm tội không vâng lời Chúa và khiến A-đam phạm tội theo thì Đức Chúa Trời mới trao quyền cho A-đam cai trị Ê-va và kể từ đó, mọi ý muốn của Ê-va phải ở trong sự phục tùng A-đam:

“Ngài phán cùng người nữ rằng: Ta sẽ thêm điều cực khổ bội phần trong cơn thai nghén; ngươi sẽ chịu đau đớn mỗi khi sanh con; sự dục vọng ngươi phải xu hướng về chồng, và chồng sẽ cai trị ngươi” (Sáng Thế Ký 3:16)

Trong nguyên tác của Thánh Kinh, chữ “dục vọng” trong Sáng Thế Ký 3:16 cùng là một với chữ “thèm” trong Sáng Thế Ký 4:7. So sánh:

“Nếu ngươi làm lành, há chẳng ngước mặt lên sao? Còn như chẳng làm lành, thì tội lỗi rình đợi trước cửa, thèm ngươi lắm; nhưng ngươi phải quản trị nó” (Sáng Thế Ký 4:7).

Như vậy, “dục vọng” không có nghĩa chỉ là sự khao khát thoả mãn về tình dục như một số người lầm tưởng nhưng là tất cả những gì mà Ê-va mong muốn, và tất cả những sự mong muốn đó phải đặt dưới sự cai trị của A-đam.

Chữ “cai trị” trong Sáng Thế Ký 3:16 cùng là một với chữ “quản trị” trong Sáng Thế Ký 4:7, và cùng là một chữ để chỉ về sự cai trị của một vị vua như khi dân Y-sơ-ra-ên thỉnh cầu Ghê-đê-ôn và con cháu ông quản trị họ và Ghê-đê-ôn đã trả lời rằng: Đức Giê-hô-va sẽ quản trị họ:

“Bấy giờ, những người Y-sơ-ra-ên nói cùng Ghê-đê-ôn rằng: Xin ông, con trai, và cháu ông hãy quản trị chúng tôi, vì ông đã giải cứu chúng tôi khỏi tay dân Ma-đi-an. Nhưng Ghê-đê-ôn đáp cùng chúng rằng: Ta chẳng quản trị các ngươi, con trai ta cũng không quản trị các ngươi đâu; Đức Giê-hô-va sẽ quản trị các ngươi” (Các Quan Xét 8:22, 23)

Như vậy, sự cai trị của chồng đối với vợ là một thẩm quyền tuyệt đối đến từ Chúa: “vì chồng là đầu vợ, khác nào Đấng Christ là đầu Hội Thánh,” cho nên Chúa dạy: Vợ phải vâng phục chồng như vâng phục Chúa!

Sự kiện “vợ phải vâng phục chồng như vâng phục Chúa” khó được nhiều người chấp nhận, đàn ông cũng như đàn bà. Đối với họ, vâng phục một người như vâng phục Chúa là một sự phạm thượng. Tuy nhiên, chúng ta cần phải phân biệt sự vâng phục với sự thờ phượng. Sự thờ phượng chỉ thuộc về một mình Đức Chúa Trời cho nên chúng ta không thờ phượng ai khác ngoài Chúa; trong khi sự vâng phục các thẩm quyền do Chúa đặt để chính là sự vâng phục Chúa; còn sự chống nghịch các thẩm quyền do Chúa đặt để tức là sự chống nghịch Chúa. Rô-ma 13:1, 2 chép:

“Mọi người phải vâng phục các đấng cầm quyền trên mình; vì chẳng có quyền nào mà chẳng đến bởi Đức Chúa Trời, các quyền đều bởi Đức Chúa Trời chỉ định. Cho nên ai chống cự quyền phép, tức là đối địch với mạng lịnh Đức Chúa Trời đã lập; và những kẻ đối địch thì chuốc lấy sự phán xét vào mình.”

Trong thời Cựu Ước, chính Đức Chúa Trời phán rằng: Ngài lập Môi-se như là Đức Chúa Trời của Pha-ra-ôn (Xuất Ê-díp-tô Ký 7:1), cho nên, khi Pha-ra-ôn chống nghịch Môi-se tức là chống nghịch Chúa. Phong trào “Nam Nữ Bình Quyền” đang lan tràn khắp nơi trên thế giới ngày nay là một phong trào chống nghịch Lời Chúa. Đàn ông và đàn bà bình đẳng trước mặt Chúa (I Cô-rinh-tô 11:11) nhưng không hề bình quyền. Đức Thánh Linh phán dạy rõ ràng: Vợ phải vâng phục chồng trong mọi sự và đàn bà không được dạy dỗ hoặc cầm quyền trên đàn ông (I Ti-mô-thê 2:12).

Mặc dù “vợ phải vâng phục chồng như vâng phục Chúa” nhưng vâng phục đây là vâng phục trong Chúa, nghĩa là vâng phục trong tiêu chuẩn của Lời Chúa. Nếu người chồng ra lệnh cho người vợ phải làm những sự trái nghịch với Lời Chúa thì người vợ có quyền từ chối không vâng theo. Công Vụ Các Sứ Đồ 5:29 là tiêu chuẩn của sự vâng phục các thẩm quyền do Đức Chúa Trời đặt để trên con dân Chúa:

“Thà phải vâng lời Đức Chúa Trời còn hơn là vâng lời người ta.”

Có thể nói, bổn phận duy nhất của vợ đối với chồng chính là “vâng phục chồng như vâng phục Chúa trong mọi sự, như Hội Thánh vâng phục Đấng Christ trong mọi sự!” Vâng phục nghĩa là làm theo y như lời chồng nói và hết lòng mà làm như là làm cho Chúa (Cô-lô-se 3:23). Người vợ nào có thể hành xử như vậy, thật xứng đáng mang lấy danh hiệu “Người Nữ Tài Đức,” giá trị trổi hơn châu ngọc (Châm Ngôn 31:10).

Bổn phận vâng phục chồng không ngoại trừ quyền được nói lên ý muốn và sở thích hoặc quan điểm của người vợ. Dầu vậy, mọi ý muốn, sở thích, và quan điểm của người vợ đều phải phục tùng quyết định của người chồng. Tuy nhiên, khi người người vợ hoàn toàn vâng phục chồng thì chồng sẽ vì yêu mến vợ mà chìu theo những ý muốn, sở thích, và quan điểm của vợ. Trên hết mọi sự, hễ ai ở trong Chúa và sống theo Lời Chúa thì Ngài sẽ ban cho họ mọi điều họ cầu xin. Chính Đức Chúa Jesus khẳng định điều đó:

“Ví bằng các ngươi cứ ở trong Ta, và những lời Ta ở trong các ngươi, hãy cầu xin mọi điều mình muốn, thì sẽ được điều đó.” (Giăng 15:7)

Tất cả những thái độ lớn tiếng, cải trả, đay nghiến, dằn vặt, ra lệnh cho chồng.. đều đến từ xác thịt và đều là tội lỗi nghịch lại chính Đức Chúa Trời. Những người phụ nữ cư xử như vậy với chồng cần phải ăn năn tội nếu không họ sẽ bị trật phần ân điển, vì chỉ những ai làm theo thánh ý của Chúa (được ghi chép rõ ràng trong Thánh Kinh, và được Đức Thánh Linh nhắc nhỡ trong lòng hoặc qua các lời giảng dạy của các tôi tớ Chúa) mới được vào Nước Trời (Ma-thi-ơ 7:21).

II. Chồng yêu vợ như Đấng Christ yêu Hội Thánh, phó chính mình vì Hội Thánh

25 Hỡi người làm chồng, hãy yêu vợ mình, như Đấng Christ đã yêu Hội thánh, phó chính mình vì Hội thánh.

Mệnh lệnh: “Chồng hãy yêu vợ mình như Đấng Christ yêu Hội Thánh, phó chính mình vì Hội Thánh” là mệnh lệnh mà chỉ có những người chồng thật sự ở trong Chúa và để cho Chúa hoàn toàn làm chủ đời sống mình mới có thể vâng theo.

Người chồng chỉ có thể yêu vợ như Đấng Christ yêu Hội Thánh khi người chồng nhận thức được tình yêu của Đấng Christ ban cho chính cá nhân mình. Lời Chúa trong I Giăng 4:19 phán rằng: “Chúng ta yêu vì Chúa đã yêu chúng ta trước!” Có nghĩa là: Chính vì Chúa yêu thương chúng ta, bày tỏ tình yêu của Ngài cho chúng ta qua Đấng Christ mà chúng ta mới được dựng nên mới trong Đấng Christ và được chứa đầy tình yêu của Ngài. Nhờ đó chúng ta mới biết yêu Chúa hơn tất cả mọi sự và yêu thương người khác như chính mình.

Chúa không chỉ truyền lệnh cho chồng phải yêu vợ như Đấng Christ yêu Hội Thánh mà Ngài còn nói đến sự thể hiện tột đỉnh của tình yêu là: vì vợ mà chồng phó chính mình như Đấng Christ đã phó chính mình Ngài cho Hội Thánh. Nghĩa là, Đấng Christ đã từ bỏ chính mình, gánh lấy đau đớn và sự chết trên thập tự giá vì Hội Thánh thì người chồng cũng phải noi theo gương đó để sẵn sàng chịu khổ và ngay cả chịu chết cho vợ của mình.

Về mặt thuộc thể, người chồng không ngại khổ để làm lụng cực nhọc, chu cấp những nhu cầu vật chất cho vợ và sẵn sàng chết để bảo vệ vợ mạng sống của vợ trong cơn nguy hiểm; hoặc bỏ ăn, bỏ ngủ để chăm sóc vợ trong cơn đau yếu, bệnh tật; hoặc sẵn sàng bỏ đi những thú vui riêng để đem lại niềm vui cho vợ.

Về mặt thuộc linh, người chồng có bổn phận làm hết sức mình để giúp vợ hiểu biết Lời Chúa càng hơn, tăng trưởng đức tin càng hơn, và phục vụ Chúa càng hơn trong suốt cả cuộc đời. Người chồng phải đặt phúc lợi thuộc linh của vợ làm đầu và chính mình làm tấm gương sống cho cả gia đình.

Khi vợ phạm lỗi người chồng phải tỏ lòng nhân từ thương xót, chậm nóng giận, sẵn sàng tha thứ và dùng Lời Chúa mà mềm mại bẻ trách sửa trị. Khi chồng có lỗi, phải biết hạ mình nhận lỗi với vợ. Chồng phải biết lắng nghe tâm tư, nguyện vọng, quan điểm của vợ và cùng với vợ dâng trình những điều đó lên cho Chúa để có sự khôn ngoan từ nơi Chúa mà chìu ý vợ. Quyền cai trị Chúa trao cho người chồng là để đem hạnh phúc đến cho vợ chứ không phải để tìm thú vui riêng cho mình.

Yêu là bằng mọi cách giúp cho người mình yêu được nâng lên đến giá trị tuyệt đối. Đấng Christ yêu Hội Thánh nên bằng mọi cách giúp cho Hội Thánh trở nên “không tì, không vít, không chỗ trách được” (I Tê-sa-lô-ni-ca 5:23, 24). Chồng yêu vợ là bằng mọi cách giúp cho vợ hiểu biết đúng Lời Chúa và sống theo đúng Lời Chúa.

Một người chồng yêu thương vợ như Đấng Christ yêu Hội Thánh là người chồng có thể nói với vợ rằng: “Hãy bắt chước anh như chính mình anh bắt chước Đấng Christ!” theo tinh thần của I Cô-rinh-tô 11:1; và mệnh lệnh duy nhất người chồng cần phải ra cho vợ, đó là: “Hễ sự gì em đã học, đã nhận, đã nghe ở nơi anh và đã thấy trong anh, hãy làm đi, thì Đức Chúa Trời của sự bình an sẽ ở cùng gia đình chúng ta” theo tinh thần của Phi-líp 4:9.

Kết Luận

Tình yêu vợ chồng là một mầu nhiệm, nghĩa là, nhờ Đức Chúa Trời bày tỏ qua Lời của Ngài là Thánh Kinh mà chồng nhận thức được mình phải yêu vợ như thế nào và vợ nhận thức được mình phải vâng phục chồng như thế nào. Tình yêu giữa vợ chồng là sự nối dài của tình yêu giữa Đấng Christ và Hội Thánh. Không thuộc về Đấng Christ không thể có được tình yêu vợ chồng.

Ngoài Chúa, loài người không hề biết sự mầu nhiệm của tình yêu vợ chồng. Vì thế, người thế gian sống với nhau chỉ là để thoả mãn nhu cầu tình dục hay vì một ích lợi nào đó cho bản thân. Vì thế, trong những cuộc hôn nhân của người thế gian hoặc là vợ lấn lướt chồng hoặc là chồng bức hiếp vợ. Vì thế, người thế gian, cho dù có sống với nhau từ thuở thanh xuân cho đến tuổi già răng long đầu bạc vẫn không hề nếm biết hạnh phúc.

Cảm tạ Chúa đã qua tình yêu của vợ chồng giúp chúng ta hiểu một cách sâu đậm và thắm thiết hơn tình yêu của Chúa đối với chúng ta và bổn phận của chúng ta khi chúng ta tiếp nhận tình yêu của Chúa!

Huỳnh Christian Timothy
Ngày 24-01-2009

 

Chú thích:

[1] “Ngài đáp rằng: bởi vì đã ban cho các ngươi được biết những điều mầu nhiệm của nước thiên đàng, song về phần họ, thì không ban cho biết” (Ma-thi-ơ 13:11).“Ngài phán rằng: Sự mầu nhiệm của nước Đức Chúa Trời đã tỏ ra cho các ngươi; nhưng về phần người ngoài, thì dùng thí dụ để dạy mọi sự” (Mác 4:11). “Ngài đáp rằng: Đã ban cho các ngươi được biết những sự mầu nhiệm nước Đức Chúa Trời; song, với kẻ khác thì dùng thí dụ mà nói, để nó xem mà không thấy, nghe mà không hiểu” (Lu-ca 8:10). “Ngợi khen Đấng có quyền làm cho vững chí anh em theo Tin Lành của tôi và lời giảng Đức Chúa Jêsus Christ, theo sự tỏ ra về lẽ mầu nhiệm, là lẽ đã giấu kín từ mọi đời trước” (Rô-ma 16:25). “Chúng tôi giảng sự khôn ngoan của Đức Chúa Trời, là sự mầu nhiệm kín giấu, mà từ trước các đời, Đức Chúa Trời đã định sẵn cho sự vinh hiển chúng ta” (I Cô-rinh-tô 2:7). “Đọc đến thì anh em có thể rõ sự hiểu biết của tôi về lẽ mầu nhiệm của Đấng Christ, là lẽ mầu nhiệm trong các đời khác, chưa từng phát lộ cho con cái loài người, mà bây giờ đã được Đức Thánh Linh tỏ ra cho các sứ đồ thánh và tiên tri của Ngài” (Ê-phê-sô 3:4, 5). “Cũng hãy vì tôi mà cầu nguyện, để khi tôi mở miệng ra, Chúa ban cho tôi tự do mọi bề, bày tỏ lẽ mầu nhiệm của đạo Tin Lành” (Ê-phê-sô 6:19). “Tôi làm kẻ giúp việc của Hội Thánh đó, bởi sự phân phát của Đức Chúa Trời, là Đấng giao cho tôi cái phần việc truyền đạo Chúa cho anh em cách trọn vẹn, tức là sự mầu nhiệm đã giấu kín trải các đời các kiếp, mà nay tỏ ra cho các thánh đồ Ngài” (Cô-lô-se 1:25, 26).